Trang Chủ Bác sĩ của bạn Hứa hẹn các liệu pháp điều trị mới cho chứng đa xơ cứng

Hứa hẹn các liệu pháp điều trị mới cho chứng đa xơ cứng

Mục lục:

Anonim

Bệnh đa xơ cứng (MS) là một bệnh mãn tính ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương. Thần kinh được bao phủ trong một lớp phủ bảo vệ gọi là myelin, cũng làm tăng tốc độ truyền tín hiệu thần kinh. Những người bị MS cảm thấy viêm vùng myelin và suy thoái tiến triển và mất myelin.

Thần kinh có thể hoạt động bất thường khi myelin bị hỏng. Điều này có thể gây ra một số triệu chứng không thể đoán trước. Chúng bao gồm:

1 -> quảng cáo Quảng cáo
  • đau, ngứa ran, hoặc cảm giác nóng bỏng trong cơ thể
  • mất thị lực
  • khó vận động
  • co thắt cơ hoặc cứng> 999> khó đọc
  • > suy giảm trí nhớ và chức năng nhận thức
  • Năm nghiên cứu chuyên dụng đã dẫn tới các phương pháp điều trị mới cho MS. Hiện vẫn chưa có thuốc chữa bệnh, nhưng các phác đồ thuốc và liệu pháp hành vi cho phép những người có MS để có một chất lượng cuộc sống tốt hơn.
  • 999> Tìm hiểu về các thống kê của MS bao gồm tỷ lệ hiện nhiễm, nhân khẩu học, các yếu tố nguy cơ, và nhiều hơn nữa »

Mục đích điều trị

Nhiều lựa chọn điều trị có thể giúp quản lý tiến trình và triệu chứng của bệnh mãn tính này. Điều trị có thể giúp:

Quảng cáo

làm chậm sự tiến triển của MS

giảm thiểu các triệu chứng trong đợt cấp MS hoặc tăng lên

cải thiện chức năng thể chất và tinh thần
  • Việc điều trị theo hình thức các nhóm hỗ trợ hoặc nói chuyện có thể cũng cung cấp sự hỗ trợ tinh thần cần thiết.
  • Điều trị
Bất cứ ai được chẩn đoán có dạng tái phát MS sẽ có thể bắt đầu điều trị bằng thuốc điều trị bệnh được FDA chấp thuận. Điều này bao gồm những cá nhân trải nghiệm sự kiện lâm sàng đầu tiên phù hợp với MS. Điều trị bằng thuốc điều trị bệnh cần tiếp tục vô thời hạn trừ khi bệnh nhân có đáp ứng kém, gặp các phản ứng phụ không dung nạp được, hoặc không dùng thuốc theo ý họ. Điều trị cũng nên thay đổi nếu có lựa chọn tốt hơn.

Quảng cáo Quảng cáo

Gilenya (fingolimod)

Năm 2010, Gilenya trở thành loại thuốc uống đầu tiên dùng để điều trị lại các loại MS tái phát được Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) phê duyệt. Các báo cáo cho thấy rằng nó có thể làm giảm tình trạng tái phát một nửa và làm chậm sự tiến triển của bệnh.

Teriflunomide (Aubagio)

Mục tiêu chính của điều trị MS là làm chậm sự tiến triển của bệnh. Thuốc mà thực hiện điều này được gọi là thuốc điều trị bệnh. Một loại thuốc như vậy là thuốc uống teriflunomide (Aubagio). Nghiên cứu được công bố trên tạp chí The New England Journal of Medicine cho thấy những người bị MS tái phát đã dùng teriflunomide một lần mỗi ngày có tỷ lệ tiến triển bệnh chậm hơn đáng kể và ít tái phát hơn so với những người đã dùng một giả dược.Người ta cho dùng liều cao teriflunomide (14 mg so với 7 mg) có thể làm giảm sự tiến triển của bệnh. Teriflunomide là thuốc điều trị bệnh răng miệng thứ hai được chấp thuận cho điều trị MS.

Dimethyl fumarate (Tecfidera)

Một loại thuốc sửa đổi bệnh đường uống thứ ba đã có sẵn cho những người có MS vào tháng 3 năm 2013. Dimethyl fumarate (Tecfidera) trước đây gọi là BG-12. Nó ngăn chặn hệ thống miễn dịch tấn công chính nó và tiêu hủy myelin. Nó cũng có thể có tác dụng bảo vệ trên cơ thể, tương tự như tác dụng chống oxy hoá có. Thuốc có ở dạng viên nang.

Dimethyl fumarate được thiết kế cho những người có bệnh nhân tái phát MS (RRMS). RRMS là một dạng của căn bệnh mà trong đó một người thường bị thuyên giảm trong một khoảng thời gian trước khi các triệu chứng xấu đi. Những người có loại MS này có thể hưởng lợi từ liều hai lần mỗi ngày của loại thuốc này.

Quảng cáo Quảng cáo

Dalfampridine (Ampyra)

Sự hủy hoại myelin do MS gây ra ảnh hưởng đến việc các dây thần kinh gửi và nhận tín hiệu. Điều này có thể ảnh hưởng đến chuyển động và di động. Kênh kali giống như lỗ chân lông trên bề mặt của các sợi thần kinh. Chặn các kênh có thể cải thiện sự dẫn truyền thần kinh trong dây thần kinh bị ảnh hưởng.

Dalfampridine (Ampyra) là chất ngăn chặn kênh kali. Các nghiên cứu được công bố trên The Lancet cho thấy dalfampridine (trước đây gọi là fampridine) làm tăng tốc độ đi bộ ở những người có MS. Nghiên cứu ban đầu đã kiểm tra tốc độ đi bộ trong suốt chuyến đi bộ 25 bộ. Nó không cho thấy dalfampridine có lợi. Tuy nhiên, phân tích sau nghiên cứu cho thấy rằng những người tham gia cho thấy tốc độ đi bộ tăng lên trong một thử nghiệm sáu phút khi dùng 10 mg thuốc mỗi ngày. Những người tham gia có kinh nghiệm tăng tốc độ đi bộ cũng cho thấy sức cơ bắp cải thiện.

Alemtuzumab (Lemtrada)

Alemtuzumab (Lemtrada) là một kháng thể monoclonal nhân tạo (thực phẩm tạo ra protein phá hủy tế bào ung thư). Đây là một tác nhân điều chỉnh bệnh được chấp thuận để điều trị các dạng tái phát của MS. Nó nhắm đến một protein gọi là CD52 được tìm thấy trên bề mặt của các tế bào miễn dịch. Mặc dù nó không được biết chính xác cách hoạt động của alemtuzumab, nó được cho là gắn kết với CD52 trên tế bào lympho T và B (các tế bào bạch huyết) và gây ra phân li (phân hủy tế bào). Thuốc này lần đầu tiên được phê chuẩn để điều trị bệnh bạch cầu với liều lượng cao hơn nhiều.

Quảng cáo

Lemtrada đã gặp khó khăn khi được FDA chấp thuận tại Hoa Kỳ. FDA bác bỏ đơn xin phê duyệt của Lemtrada vào đầu năm 2014. Họ cho rằng cần phải có thêm các thử nghiệm lâm sàng cho thấy lợi ích vượt trội hơn nguy cơ bị các phản ứng phụ nghiêm trọng. Sau đó, FDA đã chấp thuận cho Lemtrada vào tháng 11 năm 2014, nhưng nó kèm theo cảnh báo về các tình trạng tự miễn dịch nghiêm trọng, các phản ứng truyền và tăng nguy cơ ung thư ác tính như u ác tính và các loại ung thư khác. Nó đã được so sánh với thuốc MS của EMD Serono, Rebif, trong hai thử nghiệm phase III. Các thử nghiệm cho thấy rằng nó đã được tốt hơn trong việc giảm tỷ lệ tái phát và tình trạng tồi tệ hơn của người khuyết tật trong hai năm.

Vì tính an toàn của nó, FDA khuyến cáo rằng chỉ được kê toa cho những bệnh nhân đã không đáp ứng đủ với hai hoặc nhiều hơn các phương pháp điều trị MS khác.

AdvertisingAdvertisement

Kỹ thuật bộ nhớ câu hỏi sửa đổi

MS cũng ảnh hưởng đến chức năng nhận thức. Nó có thể tiêu cực ảnh hưởng đến trí nhớ, tập trung, và các chức năng điều hành như tổ chức và lập kế hoạch.

Các nhà nghiên cứu thuộc Trung tâm Nghiên cứu Kessler Foundation phát hiện ra rằng kỹ thuật bộ nhớ câu chuyện đã sửa đổi có thể có hiệu quả đối với những người có kinh nghiệm về nhận thức từ MS. Các vùng trí nhớ và trí nhớ của não cho thấy có nhiều kích hoạt trong MRI quét sau các buổi mSMT. Phương pháp điều trị đầy hứa hẹn này giúp mọi người giữ lại ký ức mới. Nó cũng giúp mọi người nhớ lại thông tin cũ hơn bằng cách sử dụng mối liên hệ dựa trên câu chuyện giữa hình ảnh và ngữ cảnh. Kỹ thuật bộ nhớ câu chuyện đã được sửa đổi có thể giúp một ai đó với MS ghi nhớ các mục khác nhau trong danh sách mua sắm.

Myelin peptide

Myelin sẽ trở nên hư hỏng không thể phục hồi được ở những người bị MS. Các thử nghiệm sơ bộ được báo cáo trong JAMA Neurology cho thấy một liệu pháp mới có thể hứa hẹn. Một nhóm nhỏ các đối tượng nhận được peptide myelin (các mảnh protein) thông qua một miếng mòn trên da của họ trong một năm. Một nhóm nhỏ khác nhận được giả dược. Những người nhận được peptide myelin có ít tổn thương và tái phát hơn so với những người nhận được giả dược. Bệnh nhân dung nạp tốt việc điều trị, và không có các tác dụng phụ nghiêm trọng.

Quảng cáo

Tương lai của các điều trị MS

Các liệu pháp điều trị MS hiệu quả khác nhau tùy từng người. Điều gì làm việc tốt cho một người sẽ không nhất thiết phải làm việc cho người khác. Cộng đồng y tế tiếp tục tìm hiểu thêm về căn bệnh và cách xử lý nó tốt nhất. Nghiên cứu kết hợp với thử nghiệm và sai sót là chìa khóa để tìm một phương pháp chữa bệnh.